Page 16 - Niên giám Cục Thống kê tỉnh Hà Nam năm 2018
P. 16
Dân số trung bình tỉnh Hà Nam năm 2018 là 808.149 người, dân
số nam đạt 399.804 người, chiếm 49,5%, dân số nữ đạt 408.345
người, chiếm 50,5%, dân số khu vực thành thị đạt 128.204 người,
chiếm 15,9%, dân số khu vực nông thôn đạt 679.945 người chiếm
2
84,1%. Mật độ dân số là 938 người/km , phân bố dân cư theo lãnh thổ
không đồng đều, có sự chênh lệch về mật độ dân cư giữa các huyện,
2
thành phố (cao nhất là thành phố Phủ Lý: 1.635 người/km , thấp nhất
2
là huyện Kim Bảng: 683 người/km ).
Dân số khu vực thành thị có tốc độ tăng nhanh trong những năm
gần đây từ 10,4% năm 2010 lên 15,9% năm 2018. Dân số thành thị
tăng nhanh do trong thời gian qua tỉnh đẩy mạnh thực hiện công
nghiệp hóa, phát triển khu công nghiệp ở các đô thị thu hút lao động
đến làm việc. Bên cạnh đó, việc mở rộng địa giới hành chính thành
phố Phủ Lý, đầu tư cơ sở hạ tầng dân sinh thu hút dân cư cũng góp
phần tăng tỷ lệ dân số đô thị.
Trong những năm qua, tỷ lệ sinh của dân số giảm đáng kể, tỷ lệ
sinh đạt mức sinh thay thế; tuổi thọ trung bình dân số ngày càng tăng
do thành công của công tác kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc sức khỏe
nhân dân và sự phát triển trong y học cũng như điều kiện sống người
dân dần được cải thiện.
Năm 2018, dân số trong độ tuổi lao động 472.221 người (nam từ
15-59; nữ từ 15-54), chiếm 58,4% so với tổng dân số, đây là thời kỳ
cơ cấu “dân số vàng” mang lại cơ hội lớn để tận dụng nguồn nhân lực
có chất lượng cho tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững của tỉnh.
Tuy nhiên, nếu không có sự quan tâm và các chính sách phát triển phù
hợp, cơ cấu “dân số vàng” không những không đem lại tác động tích
cực cho phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh mà sẽ là áp lực về việc làm,
trật tự, an ninh xã hội….Vì vậy, để tận dụng lợi thế này đòi hỏi các
cấp các ngành phải có những chính sách phù hợp nhằm nâng cao chất
16